Thừa cân, mang thai muộn, không ăn bông cải xanh… là một vài trong số những nguyên nhân đẩy bạn đến gần với bệnh ung thư vú hơn.
1. Uống một cốc rượu (hoặc hơn) mỗi ngày
Những phụ nữ uống rượu mỗi ngày sẽ làm tăng nguy cơ bị ung thư vú lên tới 9% so với những phụ nữ không uống chút rượu nào. Đây là kết quả của cuộc nghiên cứu năm 1998 được tiến hành tại trường Đại học Sức khỏe cộng đồng Havard ở Boston.
Tác giả cuộc nghiên cứu và là chuyên gia dịch tễ học của trường Đại học Havard, tiến sỹ Stephanie Smith-Warner, giải thích: “Chúng tôi nhận thấy những người uống rượu mỗi ngày thì có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn khoảng 9%”.
Nói cách khác, nếu thường xuyên uống hai cốc rượu mỗi tối thì nguy cơ ung thư vú sẽ tăng khoảng 18%, nếu là 3 cốc thì tăng lên 27%.
Vậy, liệu có an toàn nếu uống rượu? Theo Rache Simmons, một bác sỹ phẫu thuật ngực tại trung tâm Y học New York Presbyterian Weill Cornell, là có nếu vừa phải: “Tôi khuyên các bạn nên hạn chế uống rượu mỗi ngày”.
2. Thừa cân
Thừa cân cũng có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư vú.
Ruth Oratz, một bác sỹ chuyên khoa ung thư vú tại trung tâm y học Kaplan của trường đại học New York, cho biết: “Những phụ nữ bị thừa cân thường có hàm lượng estrogen và insulin trong m.áu cao hơn, cả hai thứ này, theo chúng tôi, đều thúc đẩy sự phát triển của các tế bào ung thư”.
Theo kết quả một cuộc nghiên cứu, sau khi mãn kinh, thừa cân có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú lên tới 60%. (Các nhà nghiên cứu vẫn không hoàn toàn chắc chắn tăng bao nhiêu cân là quá nhiều, vì vậy bạn vẫn nên đến gặp bác sỹ).
Mặc dù còn lâu nữa bạn mới bị mãn kinh nhưng các chuyên gia cho rằng bạn nên giảm bất kỳ cân thừa ngay từ bây giờ: “Các bạn nên tránh tăng cân trong giai đoạn 20, 30 và 40 t.uổi vì chắc chắn tăng thêm bất kỳ cân nào cũng sẽ đẩy bạn rơi vào tình trạng những năm hậu mãn kinh”.
Bạn cũng nên cố gắng giới hạn tăng trong khoảng 11 -15 kg khi mang thai: Một nghiên cứu của trường đại học Georgetown chỉ ra rằng những phụ nữ tăng hơn 18 kg trong thời gian mang thai sẽ có nguy cơ bị ung thư vú tới 40% sau khi mãn kinh. (Những phụ nữ vẫn giữ những kg tăng thêm đó sau khi mang thai sẽ có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn bất kể cân năng ban đầu của họ là bao nhiêu).
3. Lười tập thể dục
Có nhiều bằng chứng chỉ ra rằng rằng đi chơi và đổ mồ hôi giúp giảm nguy cơ bị ung thư vú. Một nghiên cứu của trường Đại học Nam California ở Los Angeles cho thấy những phụ nữ tập thể dục ít nhất 4h/tuần trong những năm trước khi bị mãn kinh sẽ có nguy cơ bị ung thư vú thấp hơn 58% so với những phụ nữ ít hoạt động. Tại sao tập thể dục lại mang đến những lợi ích tích cực như vậy? Chủ yêu là vì nó giảm hàm lượng estrogen trong m.áu. Các nghiên cứu chỉ ra rằng tập thể dục làm tăng khả năng sản sinh ra các tế bào chống ung thư trong cơ thể. Hãy tập thể dục ít nhất 3 lần/tuần với mỗi lần khoảng 45 phút.
4. Mang thai muộn
Tiến sỹ Debbie Saslow, một nhân viên của Hiệp hội Ung thư Mỹ ở Atlanta cho biết những phụ nữ mang thai lần đầu sau 30 t.uổi hoặc chưa bao giờ sinh con sẽ có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn một chút.
Bà giải thích: “Phụ nữ càng có nhiều con thì nguy cơ bị ung thư vú càng thấp – có thể là do họ không rụng trứng nhiều (do mang thai) và do đó tiếp xúc với hocmon thấp hơn “.
Các cuộc nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cho con bú giúp bảo vệ bà mẹ khỏi bệnh tật, đặc biệt là nguy cơ bị ung thư vú hậu mãn kinh.
Saslow nói: “Lợi ích có thể nhỏ, đặc biệt là đối với những người làm điều đó chỉ trong một thời gian ngắn nhưng việc cho con bú có nhiều lợi ích sức khỏe khác mà chúng tôi khuyến khích phụ nữ nên làm nếu họ có thể và trong thời gian lâu có thể”.
5. Không ăn bông cải xanh
Một ít bông cải xanh mỗi ngày có thể giúp bạn đ.ánh đuổi ung thư vú. Nghiên cứu tại trung tâm Phòng ngừa Ung thư vú Strang tại New York cho thấy những phụ nữ ăn hỗn hợp rau họ cải hàng ngày (bắp cải, bông cải xanh, cải bruxel, súp lơ v.v…) thì giảm đáng kể hợp chất estrogen được cho gây ra ung thư vú.
Axelrod giải thích: “Những loại rau này chứa những chất hóa học có tên gọi là indole mà dường như khiến cơ thể đốt cháy estrogen, chất thúc đẩy ung thư vú”.
Cố gắng đưa những loại rau này vào trong chế độ ăn của bạn ít nhất 2 hoặc 3 lần/tuần. Không quan trọng bạn ăn chúng sống hay nấu chín. Các nhà nghiên cứu tin rằng lợi ích bảo vệ của chúng giống nhau.
Thụy Vân
(Tổng hợp theo Yh)